Thưa bà, trong bản tin cập nhật thị trường cần lao Việt Nam số 1, tính đến cuối năm 2013, số cần lao thất nghiệp trong cả nước là 900.000 người. Trong đó, đáng để ý có hơn 72.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp. Bà đánh giá thế nào về con số này?
Hiện ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp chung giao động từng 2%, tỷ lệ thất nghiệp thị thành dưới 4% - đây là con số chưa đáng lo ngại. Với 72.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp tuy chỉ chiếm 8% tổng số người thất nghiệp nhưng đã phản ánh tình trạng khá phổ quát trên thị trường cần lao giờ: Một bộ phận không nhỏ sinh viên tốt nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm.
Thực tiễn này cho thấy các vấn đề sau: Thứ nhất, tình hình kinh tế từng lớp gặp nhiều khó khăn, tốc độ phát triển kinh tế chưa đáng ứng nhu cầu nên nhu cầu tuyển dụng cần lao, nhất là lao động trẻ có trình độ đại học trở lên. Thứ hai, nguồn nhân công đào tạo bậc đại học có dấu hiệu thừa so với nhu cầu; sự gia tăng các trường đại học và các ngành học không theo quy hoạch; các cơ sở đào tạo đốn theo khả năng, chưa gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu của thị trường, của doanh nghiệp.
Thứ ba, công tác định hướng nghề nghiệp, tham vấn, giới thiệu việc làm cho sinh viên còn hạn chế, tâm lý thích bằng cấp, thích học đại học hơn học nghề còn phổ biến.
Tỷ lệ thất nghiệp cao rơi vào những người có trình độ chuyên môn có phải quá trình đào tạo của chúng ta “có vấn đề” khi những người qua đào tạo không hội đủ trình độ, kỹ năng để làm việc thực tế, thưa bà?
Về cơ bản, chất lượng giáo dục – đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo,... Là một trong những căn nguyên chính dẫn đến thực trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng không tìm được việc làm.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn do các duyên do: 1, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế kéo dài; 2, các chính sách ưu đãi đối với thanh niên có trình độ về làm việc ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa thực thụ hấp dẫn; 3, dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn yếu, thông báo về việc làm, nghề nghiệp chưa được cập nhật đầy đủ, xác thực, kịp thời; 4, hoạt động định hướng nghề, tham vấn giới thiệu việc làm còn hạn chế; việc phân luồng học trò sau khi tốt nghiệp THCS, THPT chưa hiệu quả; 5, về phía NLĐ, nhất là sinh viên, thiếu các kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc thực tiễn; một bộ phận còn trông mong vào gia đình trong việc tìm việc làm.
Theo bà thời gian tới chúng ta phải thay đổi chính sách như thế nào để giảm thiểu sự “ế ẩm” rất đáng lo ngại này?
Trong phạm vi chức năng, Bộ lĐTBXH tụ hợp thực hiện một số giải pháp sau: Chỉ đạo đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề với việc làm. Đặc biệt, đẩy nhanh tầng lớp hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho NLĐ. Hoàn thiện hệ thống thông báo thị trường cần lao, chú trọng đẩy mạnh dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn nhằm cung cấp thông tin về thời cơ việc làm, các khóa đào tạo,...
Nâng cao năng lực của hệ thống trọng tâm dịch vụ việc làm trong tham mưu, giới thiệu việc làm và định hướng nghề cho học sinh, sinh viên; phối hợp hoạt động tham vấn, giới thiệu việc làm của các trọng tâm với các cơ sở đào tạo; chú trọng phát triểnkỹ năng mềm, kỹ năng làm việc cho sinh viên. Kết hợp với Bộ Giáo dục Đào tạo và các đơn vị liên tưởng triển khai thực hiện công tác phân luồng học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp dự vào thị trường lao động.
- Xin cảm ơn bà về cuộc bàn luận!
0 nhận xét